Hồ Chí Minh – người góp công mở đầu hiện đại hóa tiếng Việt_lịch thi đấu cúp c2 châu á

Trong disản ngôn ngữ của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,ồChíMinh–ngườigópcôngmởđầuhiệnđạihóatiếngViệlịch thi đấu cúp c2 châu á Đường Cách mệnh, Sửa đổi lối làmviệc,Thường thức chính trị thuộc số những tác phẩm là cột mốc đánh dấu một giaiđoạn quan trọng trong quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Ngônngữ của những tác phẩm ấy còn ghi dấu những đóng góp của tác giả vào tiến trình“hiện đại hoá ngôn ngữ” toàn dân.

 

Theo hướngnghiên cứu và học tập di sản ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, GS TS Bùi KhánhThế Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM đã so sánh 3 tác phẩm tiêu biểucủa Người nhằm góp phần làm rõ công lao của Bác vào “sự mở đầu và quá trìnhhiện đại hóa ngôn ngữ và câu văn Việt Nam”.

 

Những tácphẩm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, trong Hồ Chí Minh Toàn tập (xuất bản lầnthứ 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000) được các cơ quan in riêng thànhsách nhỏ, có 3 cuốn thuộc cùng một thể loại được chọn riêng để khảo sát, đó là:Đường Cách mệnh, Sửa đổi lối làm việc, Thường thức chính trị.

 

 

Cả ba tácphẩm trên đều có chung một tính chất là tài liệu huấn luyện. Đó là những sáchgiáo khoa về khoa học chính trị.

 

Đường Cáchmệnh (cuốn này bản in năm 1927 viết là Đường Kách mệnh) gồm những bài giảng cho các lớp huấn luyện chính trị ởQuảng Châu, Trung Quốc (1925 – 1927), sau đó năm 1927 được Bộ Tuyên truyền HộiLiên hiệp các dân tộc bị áp bức ấn hành.

 

Sửa đổi lốilàm việc được coi là văn kiện quan trọng về xây dựng Đảng. Cuốn này có ghi“viết xong tháng 10-1947”, được NXB Sự thật ấn hành lần đầu tiên năm 1948 vàđược đưa vào tập 5, Hồ Chí Minh toàn tập “theo sách xuất bản lần thứ 7, năm1959”.

 

Thường thứcchính trị gồm 50 bài viết đăng trên báo Cứu quốc năm 1953 và 1954 được NXB Sựthật tập hợp lại và in thành sách để cung cấp tài liệu học tập và tuyên truyềntrong cán bộ và nhân dân.

 

Vì đốitượng của tài liệu học tập được xác định rõ ràng cũng như mục tiêu của việc họctập là rất cụ thể, nên các văn kiện này không chỉ phong phú và được nâng caonhiều về mặt nội dung nhận thức, mà còn được trình bày với những ngôn từ đượctinh lọc, tiết kiệm và dễ hiểu, thể hiện sự nghiêm khắc khi cần, nhưng luônluôn tỏ rõ thái độ bao dung, chân tình.

 

Cùng mộtthể loại, ba tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh có một số đặc điểm chung về ngônngữ và đồng thời mỗi tác phẩm cũng có những đặc điểm riêng nhất định.

 

Đặc điểmchung về ngôn ngữ trong 3 tác phẩm này phản ánh hầu như tất cả những điều mànhiều tác giả đã nhận xét khi viết về phong cách ngôn ngữ của Bác Hồ: “Cáchdiễn đạt giản đơn, sáng tỏ, dễ hiểu, dễ nhớ, có sức thuyết phục mạnh mẽ và sâusắc” (Phạm Văn Đồng); "thể hiện tính quần chúng, sự phong phú, nhưng luônluôn chọn cách thể hiện giản dị, dễ hiểu; “cốt cho nội dung tư tưởng tình cảmtrong lời nói, câu văn có hiệu lực cao đối với nhận thức và hành động” củangười nghe, người đọc (Hoàng Tuệ), đồng thời cũng “sáng tạo những từ ngữ mới,diễn đạt mới” khi cần (Nguyễn Kim Thản); tạo nên “các ngữ cảnh, văn cảnh mới mẻkhác nhau với những từ ngữ thông dụng” (Phạm Huy Thông)…

 

Chính nhờvậy mà khi đọc ba tác phẩm này cũng như toàn bộ văn phẩm của Hồ Chí Minh, chúngta cảm nhận rõ ràng tất cả đều “cao mà không xa, mới mà không lạ, lớn mà khônglàm ra vĩ đại, soi sáng mà không choáng ngợp”, như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồngtừng nhận định.

 

Để phù hợpvới nội dung từng tác phẩm cũng như đối tượng mà tác phẩm hướng đến, mỗi tácphẩm lại có những đặc điểm riêng nhất định về mặt ngôn ngữ. Thể hiện rõ hơn cảlà phong cách ngôn ngữ trình bày: dùng cách giới thiệu, giải thích và dùng cáchhỏi – đáp.

 

Về mặt nàyĐường Cách mệnh thiên về cách hỏi – đáp, còn Sửa đổi lối làm việc trình bày cácvấn đề chủ yếu theo cách giới thiệu, giải thích. Ví dụ, cuốn Đường Cách mệnh cótới 14/15 mục ghi dưới dạng nêu tên vấn đề sẽ được giới thiệu, chẳng hạn: cáchmệnh, quốc tế…Tuy nhiên tất cả các tiểu mục trong từng mục đều được trình bàytheo cách hỏi – đáp.

 

Sửa đổi lốilàm việc cũng có 32 lần hỏi – đáp và 4 câu hỏi tu từ, như “Nhưng thử hỏi cán bộvà Đảng viên ta đã mấy người biết rõ lí luận và biết áp dụng, và chính trị,quân sự, kinh tế và văn hóa? Đã mấy người hiểu “biện chứng” là cái gì”?

 

Giữa cáchtrình bày trong hai tác phẩm vừa được đối chiếu thì cách trình bày trong Thườngthức chính trị ở vào vị trí trung gian (vừa đặt câu hỏi, vừa theo cách trìnhbày).

 

Thuộc số disản ngôn ngữ mà Hồ Chí Minh để lại cho kho tàng tiếng Việt có một bộ phận quantrọng là các thuật ngữ thuộc những lĩnh vực khoa học khác nhau. Khảo sát 3 vănbản thuộc thể loại tài liệu giáo khoa và phổ biến khoa học này chúng ta có thểnhận ra hệ thống thuật ngữ thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt là khoahọc chính trị và triết học.

 

Ví dụ trongThường thức chính trị có hàng trăm thuật ngữ chưa có trong Đường Cách mệnh,phần lớn những thuật ngữ đã hình thành trong tiếng Việt vào thời kì trong vàsau Cách mạng tháng Tám 1945: tư liệu sản xuất, chế độ bóc lột, khủng hoảngkinh tế, tư bản độc quyền, tư bản mại bản…

 

Điều cầnđược nhấn mạnh là trong tác phẩm của Bác những thuật ngữ chính trị xã hội phầnlớn là các kết hợp thuật ngữ vốn có để tạo nên những khái niệm có tác dụng mởrộng sự hiểu biết cho người đọc, người nghe.

 

Hướng đếnđối tượng có ý thức giác ngộ chính trị và trình độ hiểu biết chính trị cao, Sửađổi lối làm việc có tỉ lệ thuật ngữ được dùng nhiều hơn hẳn so với hai tác phẩmkia. Trung bình mỗi trang của cuốn này có khoảng từ 8-10 thuật ngữ.

 

Có nhữngthuật ngữ Bác đặt thành câu hỏi để giải thích cặn kẽ cho cán bộ, đảng viên như:Biện chứng là cái gì?, Trí thức là gì? Có những thuật ngữ là từ ngữ có vẻ quenthuộc, nhưng trong văn bản cần được hiểu cụ thể trong mối quan hệ biện chứngvới nhau hoặc phải được hiểu theo tinh thần một Đảng viên, một cán bộ muốn phấnđấu tự hoàn thiện bản thân để có thể trở thành “người cách mạng chân chính”.

 

Chẳng hạnBác viết: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Códân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đóđược khen ngợi, thì người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo”.Bác cũng chỉ rõ: “Muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khócả… lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đếnchỗ… khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt… ngày càng nhiều thêm”. Nóitóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”. Và tiếptheo Bác giải thích vắn tắt về năm đức tính ấy. Rồi Bác kết lại “Đó là đạo đứccách mạng”.

 

Trong cáctác phẩm hướng đến đối tượng đông đảo hơn, Bác có cách hành văn gợi nhiều cáchtư  duy hình tượng, cụ thể, so sánh, gắnvới cuộc sống đời thường.

 

Mở đầuĐường Cách mệnh Bác dùng hình ảnh từ một câu tục ngữ Trung Quốc mà cũng quenthuộc với người Việt: “Sư tử bắt thỏ tất dùng hết sức” để dẫn tới lời khuyên:“Huống gì làm việc to tát như việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, chonhân dân, nếu không hết sức thì làm sao được”. Tiếp theo là hai câu tục ngữViệt để nâng ý chí: “Người thấy khó thì ngã lòng” vì “không hiểu rằng nước chảyđá mòn và có công mài sắt có ngày nên kim”.

 

Giới thiệuvề các cuộc cách mạng thế giới để người dân thường không chỉ biết được diễnbiến của từng cuộc cách mạng và rút ra mặt hạn chế, mặt mạnh của mỗi cuộc cáchmạng đó, không phải là dễ. Nhưng người trình bày đã giảng giải theo lối kểchuyện thông thường, dẫn chứng các con số, các sự kiện cụ thể và so sánh cácmặt lợi hại để người đọc, người nghe tự rút ra kết luận. Đó cũng là cách Bácgiới thiệu và giải thích về các tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể quần chúngcách mạng quốc tế.

 

Chuyển sangThường thức chính trị, một tác phẩm gần cùng loại với Đường Cách mệnh nhưng nộidung được mở rộng, phong phú và đối tượng tiếp nhận có trình độ nhận thức chínhtrị được nâng cao hơn do hoàn cảnh lịch sử đất nước đã khác trước, nên cáchtrình bày cũng thay đổi.

 

Một vài tụcngữ, thành ngữ quen thuộc được dùng không phải để lấy một lẽ thường, chứng minhcho một lập luận trừu tượng, mà nhằm thay cho một động từ, một định ngữ haytrạng ngữ thường dùng để cho hành động, đặc tính trở nên linh hoạt, có hình ảnhhơn. Ví dụ: “Có một số người không lao động thì lại ngồi mát ăn bát vàng”…

 

Trình bàynhững vấn đề cơ bản mà mỗi người công dân của nước Việt Nam độc lập cần biếtnhư chế độ chính trị, giai cấp, dân chủ tập trung, thành phần kinh tế và chínhsách kinh tế… qua 50 bài viết trên báo vào thời điểm năm 1953, phong cách củaThường thức chính trị rất linh hoạt. Có những vấn đề còn được trình bày bằngcách giải đáp các câu hỏi, nhưng phần lớn đã được trình bày theo hình thứcgiảng giải, làm sáng tỏ trọn vẹn một vấn đề và đặt các vấn đề nối tiếp nhauthành một hệ thống chung.

 

Chẳng hạnđó là hệ thống các vấn đề về sự xâm lược của đế quốc Pháp, con đường giảiphóng, động lực cách mạng, giai cấp lãnh đạo cách mạng, cách mạng và khángchiến… Thực chất đây là loạt bài giảng về cách mạng Việt Nam, mang sắc thái của phong cách giáo khoa đượctrình bày phần lớn bằng các từ ngữ thường ngày mà người Việt Nam ở thời điểmlịch sử này đã khá quen thuộc.

 

Thực ra,cách diễn đạt những vấn đề chính trị phức tạp bằng lối nói giản dị, bình dân,theo phong cách giáo khoa của tác phẩm này chính là sự tiếp tục ở dạng phổthông hơn phong cách ngôn từ đã từng thể hiện trong Sửa đổi lối làm việc. Bởivì, tuy về mặt thể loại Thường thức chính trị gần với Đường Cách mệnh, nhưng vềmặt thời gian lại được viết sau Sửa đổi lối làm việc và phát triển cũng như vậndụng cách trình bày sao cho thích hợp với đối tượng tiếp nhận tác phẩm.

 

Được viếtvà công bố sau Đường Cách mệnh gần 1/4 thế kỉ đã có rất nhiều thay đổi về mặtlịch sử - xã hội, số lượng thuật ngữ trong Sửa đổi lối làm việc gia tăng, phảnánh các sự kiện, các cách nhìn đối với những thay đổi, những sự kiện mới mẻ vốnlà điều hợp quy luật. Đáng chú ý hơn là sự phát triển về mặt biện pháp sử dụngngôn từ của chính tác giả qua các tác phẩm cùng thể loại. Đường Cách mệnh cũngnhư Sửa đổi lối làm việc đều có đề cập đến Đảng.

 

Trong ĐườngKách mệnh, nghĩa của thuật ngữ "Đảng" được giải thích súc tích chỉvới mấy nghĩa tố sau đây: 1. Chức năng của tổ chức này trong nước và đối vớimọi nơi khác; 2. Quan hệ hữu cơ giữa Đảng với cách mệnh; 3. Quan hệ giữa Đảngvới chủ nghĩa, tức học thuyết chính trị của Đảng.

 

Từ Đảngđược dùng 20 lần ở chương Lịch sử cách mệnh Nga với mục đích giới thiệu quátrình hình thành Đảng Cộng sản Nga và vai trò của Đảng này trong việc tổ chức,lãnh đạo thành công Cách mạng tháng Mười. Thuật ngữ Đảng còn được dùng 12 lầnđể giới thiệu các Quốc tế (Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam) và những tổ chức quần chúngcó liên hệ.

 

Trong Sửađổi lối làm việc người đọc không còn gặp những từ ngữ có cách dùng theo lối nóikhẩu ngữ thông thường như dân tình “xục rục”, “chộn rộn” (tức biến động), “tướclục” (tước đoạt), “tước bác”/ “bác tước” (bóc lột), “giắc dai” (kéo dài)… mànhiều cách dùng có sắc thái khẩu ngữ được thay bằng từ ngữ thuộc văn viết, mangtính thuật ngữ hơn. Chẳng hạn: “cách mệnh đến nơi” → cách mạng triệt để; “giựtlấy chính quyền” → giành chính quyền; “cơ quan sinh sản” → cơ sở sản xuất …

 

Nhiều tổhợp từ gồm các thành tố cấu tạo gốc Hán trong Đường Cách mệnh dùng theo trật tựtiếng Hán, đến Sửa đổi lối làm việc đều chuyển sang kết cấu thuận cú pháp tiếngViệt: dân tộc cách mệnh → cách mạng dân tộc; thế giới cách mệnh → cách mạng thếgiới; vô sản giai cấp → giai cấp vô sản; công đoàn chủ nghĩa → chủ nghĩa côngđoàn; chính trị áp bức → áp bức về chính trị…

 

Phần lớncác chương trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc thực sự là những văn bản đượctrình bày theo phong cách giáo khoa, bàn về một vấn đề hoàn chỉnh: Tư cách vàđạo đức cách mạng (III); Vấn đề cán bộ (IV); Cách lãnh đạo (V); Chống thói bahoa (VI).

 

Trong disản ngôn ngữ của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đường Cách mệnh, Sửa đổi lối làmviệc,Thường thức chính trị  thuộc sốnhững tác phẩm là cột mốc đánh dấu một sự kiện lịch sử hoặc một giai đoạn quantrọng trong quá trình đấu tranh cho nền độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổcủa nhân dân Việt Nam. Ngôn ngữ của những tác phẩm ấy một mặt cho thấy bướcphát triển của tiếng Việt do phản ánh thực tế xã hội lúc bấy giờ và mặt kháccòn ghi dấu những đóng góp của tác giả vào tiến trình “hiện đại hoá ngôn ngữ”toàn dân.

 

Bùi Khánh Thế

 

    GS.TS Ngữ văn, Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP HCM

Theo Chinhphu.vn

Nhà cái uy tín
上一篇:Xem trực tiếp Copa America 2019 tại Clip TV
下一篇:Cảnh báo thuốc Cefixim 200 giả mạo Dược Cửu Long