Truyện Mắt Âm Dương I_bóng đá c2 hôm nay

[Ngoại Hạng Anh] 时间:2025-01-11 07:37:41 来源:Fabet 作者:World Cup 点击:123次
TheệnMắtÂmDươbóng đá c2 hôm nayo lời lão Tôn thì ba tên kia xuất quỷ nhập thần trong mộ thất, nhất thờicũng chưa làm gì được, nên tạm để chúng đấy. Lão đến mộ thất chỗ Vương Uy đangchờ, hai thi thể phụ nữ trên bệ đá đã hóa thành xương khô, nhưng vẫn mặt đốimặt ôm chặt lấy nhau. Thi thể đám lính đào mộ của Mã Văn Ninh trong mộ cũng đãbị phân hủy, chỉ còn một đống xương trắng. Trên bệ đá chỉ còn một bộ xương nângnửa chiếc chân đẫm máu.

Lão Tôn đi vòng quanh bệ đá, tặc lưỡi:

- Anh Uy, chúng ta gặp phải cao nhân rồi.

Vương Uy ngớ ra hỏi lại:

- Cao nhân gì cơ?

Lão Tôn nói:

- Hai thi thể khỏa thân dâng rượu, nâng giày này thường được người Tạng gọilà thi chú. Năm xưa đạo Phật truyền vào đất Tạng, dưới sự khởi xướng của côngchúa Xích Tôn và công chúa Chiêu Quân, dần dần trở nên thịnh hành, trong khiBản giáo[1] ở đây ngày càng mai một. Đạo Phật đất Tạng phát triển nhanh chóng,khó tránh khỏi vàng thau lẫn lộn, chính trong thời kỳ này, đất Tạng lại xuấthiện một tà phái kết hợp cả Phật và Bản, gọi là đạo Già Lam. Về mặt giáo nghĩa,đạo Già Lam không phân biệt Bản, Phật, đã có thời được truyền tụng rộng rãi,rất đông tín đồ. Nhưng đạo Già Lam hành đạo lấy tà thuật làm chính, về sau vìlàm nhiều điều ác, bị Phật giáo và Bản giáo liên hợp đàn áp, thế lực suy yếudần, cuối cùng bị ép phải rời về phía Đông, từ đấy cũng mất tăm mất tích. Hìnhthức thi chú này chính là tà pháp được đạo Già Lam truyền bá khá rộng rãi, nghenói sau khi đạo Già Lam rời về phía Đông, tà pháp này cũng thất truyền, khôngngờ lại xuất hiện ở vùng núi tuyết này.

[1] Bản giáo: Tôn giáo nguyên thủy cổ sơ nhất ở Tây Tạng.

Nghe lão Tôn kể đâu ra đấy, Vương Uy cũng thầm kinh hãi, trong mộ thất nàycó thi chú của đạo Già Lam, lẽ nào đây là mộ của đạo Già Lam? Nhớ đến chiếckích hình thú giắt trên lưng, anh lại nghĩ: cái kích này ít ra cũng phải mấynghìn năm tuổi, nếu không phải là vật trong mộ này, lẽ nào trên núi tuyết còncó ngôi mộ cổ nào khác nữa ư?

Vương Uy giắt chiếc kích và con dao vào lưng áo khoác quân phục, đám ngườilão Tôn không t hiện ra, cứ tưởng đó là con dao anh vẫn đem theo từ trước.

Mấy người trong đội thám hiểm cầm đèn bão dẫn đầu, tiến vào đường hầm, ainấy đều lăm lăm tiểu liên, chuẩn bị sẵn sàng, hễ ba tên lính áo vàng kia xuấthiện, sẽ lập tức nổ súng bắn cho người chúng thủng lỗ chỗ như tổ ong luôn.

Đường hầm này vừa dài vừa dốc, lại quanh co khúc khuỷu, đi sâu xuống, trênvách hầm dần dần có nước rỉ ra, tiếp tục đi tới đoạn đường hầm ngập nước, đềulà nước do tuyết tan từ trên núi chảy xuống. Mọi người đồng loạt xắn cao quần lộinước, ai nấy run lên vì lạnh. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đi đầu, lão Tôn miệngngậm tẩu, mắt nheo nheo đi giữa đoàn. Lão ta đi không nhanh không chậm, đầu cúithật thấp, cặp mắt nheo nheo mà vẫn sáng rực, chăm chú quan sát những góc tốinơi ánh đèn không soi đến.

Hang động này dốc xuống lòng đất, trên vách lởm chởm những gờ đá hình thùquái dị, xung quanh đầy những vết nứt do thế núi chuyển động tạo nên, những trụđá trên nóc hang đan chéo nhau thành một lòng máng, lại được các trụ đá hai bênlòng máng nghiêng nghiêng, từ trước ra sau đâm sâu vào bóng tối, trông hệt nhưmột bộ xương rết khổng lồ, nằm dài trong bóng tối, đổ bóng xuống bao trùm cảđoàn người.

Trong hang yên tĩnh đến rợn người, cũng chẳng ai còn lòng dạ nào mà tròchuyện, không khí như đặc quánh lại, chỉ có tiếng lội nước bì bõm dội vào váchđá, âm ầm lan ra. Địa thế hang này ăn sâu xuống lòng đất, nhưng mọi người đimãi đi mãi vẫn chẳng thấy tăm tích sông ngầm đâu cả. Kể từ lúc họ bước vàohang, thời gian phải dài gấp mấy lần thời gian hai người trong đội thám hiểmđuổi theo ba tên lính áo vàng vào hang động rồi trở lại.

Dương Hoài Ngọc vẫy tay:

- Vương Đại Vượng, Lý Quang, hai người lại đây.

Hai người mặc đồ đen thấy Dương Hoài Ngọc gọi liền bước lên trước, khẽ thưamột tiếng:

- Cô Ngọc.

- Vừa rồi các anh cũng chạy vào cái hang này hay sao?

Người tên Vương Đại Vượng gật đầu đáp:

- Hang này không có nhánh rẽ, chắc không nhầm được đâu. Chỉ lạ một điều là,cái hang chúng tôi vào lúc đầu tiên cửa hang rất hẹp, bên trong rất nhiều đoạnquanh co, ngáng trở, không giống hang này…

Mọi người nghe Vương Đại Vượng nói đều giật mình kinh hãi, họ thấy ba đồngđội đuổi theo mấy tên lính áo vàng chạy vào hang, cuối cùng chỉ có Vương ĐạiVượng và Lý Quang quay ra. Cái hang này thẳng tuồn tuột, không có nhánh rẽ,vách hang rất kiên cố, đao búa khó mà đục nổi, vậy mà thoắt chốc lại biến đổihoàn toàn, thật là kỳ quái.

Lão Tôn nheo mắt nhìn Vương Đại Vượng và Lý Quang, chẳng nói gì, chỉ quaysang hỏi Vương Uy:

- Anh Uy thấy thế nào?

Vương Uy cũng rất hoang mang, sự việc này ly kỳ quá sức, hơn nữa bọn họ lạikhông thể lần ra bất cứ một dấu vết nào từ kết cấu của hang cả. Cứ theo lộtrình mà phán đoán hẳn họ đã tiến sâu vào lòng đất đến mấy dặm rồi, nhưng hangđộng này vẫn tiếp tục dốc xuống sâu hơn, chưa hề có vẻ dừng lại.

Hễ gặp những chuyện đau đầu như thế này Vương Uy lại nhớ đến Nhị Rỗ. Nhị Rỗđược tổ tiên truyền cho bí thuật dò tìm long mạch địa nhãn, rất giỏi nhìn rađược chỗ kỳ diệu về phong thủy trong trời đất, tìm đường sống từ trong hiểmcảnh, nếu gã ở đây, chắc hẳn muốn khám phá bí mật trong chuyện này chẳng khókhăn gì.

Thấy Vương Uy lặng yên không đáp, lão Tôn lắc đầu nói:

- Bấy nhiêu năm nay đám quân phiệt Tứ Xuyên hỗn chiến, anh bôn ba khắpXuyên Trung, vào Nam ra Bắc, những điều tai nghe mắt thấy không ít, vậy mà cũngkhông biết nguồn cơn chuyện này, thật là hết cách.

Vương Uy hắng giọng, bỏ ngoài tai câu châm chọc của lão Tôn, lão già này vôcùng xảo quyệt, chắc hẳn đã đến lúc lão dùng tới anh rồi đây. Hang động này ănsâu vào lòng đất đến mấy dặm, nói theo khoa học tự nhiên của phương Tây thì đãtiến gần đến khu vực địa tâm, có lẽ lão Tôn muốn anh đi trước thăm dò, mở đườngcho đội thám hiểm của lão chăng?

Có điều lão Tôn không dám nói thẳng, chỉ mượn lời khích bác nên Vương Uyđời nào chịu mắc lừa. Anh chỉ cười cười rồi để mặc lão ở đó, đi lòng vòng xungquanh xem xét kết cấu địa hình.

Vương Uy giơ đèn bão soi, chỉ trông thấy kết cấu nham thạch hình lòng mángnhư con rết treo ngược trên nóc hang. Vì phạm vi chiếu sáng của cây đèn có hạnnên chỉ thấy đường nét lòng máng, chẳng trông rõ được trong đó có gì.

Lão Tôn đằng hắng một tiếng, bực bội ra lênh cho đội thám hiểm:

- Theo lối cũ quay về.

Bỗng Vương Uy nói chen vào:

- Hượm đã, hượm đã, tôi thấy trần hang có vấn đề

Dương Hoài Ngọc đứng bên Vương Uy, hỏi:

- Có chuyện gì thế?

Vương Uy dùng răng cắn dây buộc đèn bão, hai tay ôm chặt lấy trụ đá cắm sâuvào vị trí trung ương của hang, vận sức mấy lay mấy cái để thử độ vững, thấytrụ đá tuy mỏng mảnh nhưng rất vững chãi, mấy người leo lên cũng không vấn đềgì, anh liền bám vào hai bên trụ, dùng lực đu lên, chui vào lòng máng.

Lối vào lòng máng đá rất hẹp, nhưng không gian bên trong rộng vô cùng, nhờánh sáng cây đèn bão, anh nhận thấy khoảng cách với các trụ đá hai bên mỗi lúcmột rộng ra, phía bên kia còn rộng đến chừng nào thật khó mà biết được.

Trụ đá càng lên cao càng to dần, tai cửa vào máng đá, trụ đá chỉ to bằngcánh tay trẻ con, Vương Uy đứng trên khúc cong của trụ đá, có thể chạm đến phầntrụ đá to cỡ một người ôm. Anh bám lấy mấu đá lớn nhô ra trên trụ, hai chânquặp chặt, dùng sức trèo lên. Vương Uy vốn đã có ngón võ gia truyền, mấy tròtrèo tường leo vách đối với anh chỉ là chuyện vặt.

Càng leo lên cao, Vương Uy càng thêm kinh ngạc, cây trụ đá này chẳng biếtmọc từ đâu ra, anh leo lên được mấy mét, phát hiện trụ đá to hơn tưởng tượngcủa anh nhiều, mười người chưa chắc đã ôm xuể.

Những người trong hang cũng nhận ra sự kỳ dị của cái máng đá, liền học theoVương Uy, lũ lượt leo lên. Hơn chục con người mặc áo đen miệng ngậm đèn bão,mỗi người ôm một cây trụ đá, thoăn thoắt leo lên.

Vương Uy leo cao hơn những người trong đội thám hiểm, nhờ cả dãy đèn bãophía dưới chiếu sáng một khoảng khá rộng, anh thấy hàng trụ đá này hệt như mộtdãy xương sườn của dã thú. Nhưng gốc của hang trụ đá này ở đâu, lớn chừng nào,anh thật chẳng dám tưởng tượng. Từ trên trông xuống, anh chẳng thấy nổi bóngngười cuối cùng leo lên, chỉ thấy ánh đèn le lói, khoảng cách giữa anh với dãyđèn bão xếp thành hình chữ nhất dưới kia áng chừng hơn trăm mét.

Lão Tôn leo lên một cây trụ đá sát bên trụ đá của Vương Uy, đợi trèo lêngần ngang với anh, lão quay sang nói:

- Này anh Uy, anh có nhận ra không? Chỗ này là đất độc.

Vương Uy ngơ ngác hỏi lại:

- Sao bác lại nói thế?

Lão Tôn nhìn quanh một hồi rồi mới đáp:

- Hồi trẻ tôi bôn ba giang hồ, gặp được cao nhân, học được thuật xem phongthủy để đào trộm mộ. Xem hình thế cái hang này giống hệt đất Bối long âm khư màthầy tôi dạy khi xưa, thật hãi quá đi mất.

Lòng Vương Uy trầm hẳn xuống, anh thầm nghĩ lão Tôn cũng là một cao thủ vềphong thủy, để nghe xem lão nói sao, liền hỏi:

- Bối long âm khư là nghĩa làm sao?

Lão Tôn giải thích:

- Trong Hám Long kinh có viết, núi Tu Di là xương sống của thiên địa, sừngsững giữa đất trời, trấn giữ thiên tâm. Giống như xương sống và gáy của conngười vậy, từ đây lại tỏa ra bốn nhánh long mạch. Bốn nhánh chia ra làm bốn thếgiới, coi Nam Bắc Đông Tây là bốn mạch. Tây Bắc, Không Đồng vạn dặm đường; Đôngvào Tam Phụ khuất bầu không; riêng có rồng Nam chầu chính giữa; nghén sinh mạchtổ há lạ lùng. Nghe nói thiên hạ có bốn long mạch lớn, long mạch chạy vào TrungQuốc được gọi là Nam Long, núi Côn Luân là núi tổ của long mạch Nam Long, cũnglà thủy tổ của long mạch trên toàn Trung Quốc, từ Côn Luân, long mạch chia ralàm ba nhánh, chạy về ba hướng Bắc, Trung, Nam. Long mạch phía Bắc chạy về phíaHoàng Hà, thế dồi dào, mạnh mẽ. Long mạch ở miền Trung nằm kẹp giữa TrườngGiang và Hoàng Hà, thế bình ổn, phân ra làm hai mạch ở nơi giáp giới giữa haidòng sông, có kinh mà không có hiểm, còn long mạch phía Nam lại nương theo thếnúi Côn Luân, khởi nguồn từ Tuyết lĩnh, trỗi lên từ mạch núi phía Nam TrườngGiang, dọc đường có ngang qua núi Đường Cổ Lạp, Dân sơn, Nam lĩnh, núi Vũ Di,chạy về phía Đông, đổ vào biển Đông. Long mạch phía Nam nhất định phải chạy quanúi Đường Cổ Lạp chỗ chúng ta, hơn nữa đây còn là nơi long mạch phía Nam đổihướng. Vượt qua rặng núi tuyết này, thế của long mạch từ núi Côn Luân đổ xuốngsẽ dần dần bình ổn, lại có hình thế rồng nằm phủ phục, chạy đến núi Vũ Di mớitừ từ đổi thế, đổ vào Đông Hải, nhưng mạch núi này chuyển hướng từ núi Đường CổLạp địa hình rất phức tạp, thế lại lắt léo hiểm trở, quả khiến người ta khó màđoán định được. Lão đứng bên dưới tuyết tuyến[2] quan sát thấy một dãy các đỉnhnúi nối liền thành một đường thẳng, các đường thẳng này đan xen nhau chồng chéonhư bàn cờ, ở giữa nổi lên một ngọn núi cao vạn trượng, thế núi hiểm trở, nhưkinh long vút lên trời, đó chính là chỗ kỳ tuyệt của sơn thủy nơi này.

[2] Tuyết tuyến: đường ranh giới mà từ đó trở lên địa thế cao hơn, băngtuyết bắt đầu bao phủ quanh năm.

Vương Uy nghi hoặc hỏi:

- Thế giới bên dưới núi này có liên quan gì đến long mạch bên ngoài núi?

Lão Tôn quan sát hướng của các trụ đá, thở dài đáp:

- Người xưa tìm long mạch, chủ yếu xem trọng năm yếu tố “rồng”, “huyệt”,“cát”, “nước” và “phương hướng”. Nếu xét riêng rẽ thì năm yếu tố này có thể xemnhư năm nguyên lý “tính rồng”, “huyệt đất”, “cát vây”, “nước ôm” và “hướngtâm”. Tính rồng chỉ khí đất lưu chuyển bên trong mạch núi phải tuần hoàn, dồidào không dứt; huyệt đất chỉ vùng đất tốt, khí đất ngưng kết, hội tụ, còn gọilà huyệt lành; cát vây, ý nói sau huyệt mộ có núi non trùng điệp bao bọc xungquanh, như vậy mới tốt; còn hướng tâm chỉ vùng đất mỏng yếu, long mạch chạygấp, khí đất trống trơn, trước sau đứt gãy. Từ lúc bước vào khe núi này, lão đãthấy mạch núi chạy đến đây tựa như kinh long quay đầu, ắt hẳn hẻm núi từ thờitiền sử này chính là vùng đất dữ kìm hãm long mạch. Kinh long chạy từ Côn Luânđến mạch núi Đường Cổ Lạp này, hẳn muốn nương theo mảnh đất báu dồi dào khíđất, có thể sản sinh ra huyệt lành này để làm một cú nhảy vọt cuối cùng. Nàongờ lại nảy ra khe núi ngầm này, vây hãm kinh long ở đây, trước mặt có đỉnh núituyết sừng sững vạn trượng ngăn trở, sau lưng lại có vô vàn núi tuyết kéo dàiliên miên, kinh long tiến lùi đều khó, bèn biến mảnh đất lẽ ra là đất báu nàythành một sơn cốc chết.

Nghe lão Tôn giảng giải một thôi một hồi về hình sông thế núi, Vương Uy sợđến ngẩn cả người ra, về bí thuật tầm long điểm huyệt anh cũng biết được đôichút. Hồi xưa ông nội anh là kỳ nhân trong đám lục lâm, từng nghiên cứu kỹnhững phương thuật cổ xưa này, nhưng ông cụ cảm thấy đã đến thời Dân Quốc,những thứ ấy ắt phải vứt vào sọt rác, cho nên không truyền thụ lại cho anh, anhchỉ thỉnh thoảng nghe ông nội nhắc đến mà thôi.

Những năm trong quân ngũ, Nhị Rỗ dựa vào bí thuật tầm long địa nhãn giatruyền đã nhiều lần cứu anh, dần dà Vương Uy cũng học được cách quan sát hìnhsông thế núi đôi chút. Nhưng Nhị Rỗ ngậm miệng rất chặt, chưa đến lúc cùngđường thì dù có moi móc thế nào gã cũng quyết không hở ra nửa chữ.

Nghe lão Tôn giảng giải, Vương Uy biết tuy lão này rất độc ác giảo hoạtnhưng cũng là một vị cao nhân trong dân gian, những bí thuật dò tìm long mạchmà lão vừa đề cập có nhiều điểm tương tự với những điều ông nội anh và Nhị Rỗtừng nói, hẳn không phải là bịa đặt.

Vương Uy suy nghĩ rồi nói:

- Vậy Bối long âm khư mà bác nói là gì thế?

Lão Tôn ngậm lấy quai xách của cây đèn bão đang treo trên mấu trụ đá vàomiệng, chỉ vào bóng tối trước mặt, hừm một tiếng, nói:

- Ở kia…

Vương Uy nhìn theo hướng lão Tôn chỉ, thấy trong bóng tối hình như có haingọn đèn. Anh không xác định nổi đó là đèn hay là thứ gì, bởi khoảng cách từđây tới đó rất xa, ánh sáng kia lại xanh lét như mắt mèo. Trong bóng tối thứ đótỏa ra ánh sáng lạnh lẽo, lớn hơn ánh lửa ma trơi nhiều, nhưng lại mờ ảo khôngsao trông rõ được. Vương Uy cố căng mắt ra nhìn nhưng vẫn không xác định nổihai chấm sáng xanh kia có tồn tại thật hay không.

Thấy Vương Uy nhìn mình bằng ánh mắt nghi ngờ, lão Tôn lại treo cây đèn lênmấu trụ, nói:

- Đúng là người nhà họ Vương vùng Quan Đông, chẳng uổng công rèn luyện đôimắt âm dương.

Vương Uy tỏ vẻ bực bội:

- Đôi mắt âm dương là thế nào?

Lão Tôn trợn mắt nhìn Vương Uy hồi lâu, lạ lùng hỏi:

- Anh không biết anh có cặp mắt thiêng có thể nhìn thấu âm dương hay sao?

Vương Uy giật mình kinh hãi, liền chửi:

- Mẹ kiếp lão bớt giả thần giả quỷ với tôi đi, mắt âm dương quái gì, mắttôi đây cũng chỉ có lòng đen lòng trắng, sao lại gọi là mắt âm dương?

Lão tôn suy nghĩ giây lát, bỗng sực hiểu ra:

- Có lẽ ông nội anh sợ rằng nhà họ Vương gây thù chuốc oán trong giang hồđã nhiều, ngón Đoạn Môn chỉ hay đôi mắt âm dương đều là tuyệt kỹ của nhà họVương, lỡ như con cháu đời sau đi đó đi đây, bị kẻ thù nhận ra sẽ gây nên taihọa.

Vương Uy nói:

- Xin bác nói cho rõ, tôi thừa nhận ngón Đoạn Môn chỉ là đòn gia truyền củanhà mình, nhưng mắt âm dương là thứ gì?

Lão Tôn nói:

- Anh có nhớ hồi nhỏ người lớn trong nhà bảo anh lúc ngủ phải mở một mắt,nhắm một mắt, trên mí con mắt mở phải cài một mẩu xương chứ? Ngày rằm hoặc mùngmột hàng tháng phải ở trong phòng tối suốt hai mươi tư giờ mới được ra ngoài,trong thời gian ấy không được ăn uống gì, đúng không nào?

Vương Uy ngạc nhiên, trước năm mười tuổi đúng là anh thường hay bị ông nộiphạt. Hồi nhỏ anh rất nghịch ngợm phá phách, để dạy dỗ uốn nắn, ông nội anh đãnghĩ ra đủ mọi thủ đoạn ly kỳ, ví dụ lúc ngủ chỉ cho nhắm một mắt, mắt kia dùngmẩu xương vừa nhỏ vừa lành lạnh chống lên; mỗi tháng có mấy ngày anh bị nhốttrong một ngôi nhà cũ nát, Vương Uy còn nhớ mãi đến nửa đêm mới được ông nội bếra. Trong gian nhà đó không có người, lại đầy mạng nhện, những con nhện to bằngbàn tay cứ bò đi bò lại, ban ngày trong nhà cũng vẫn tối om om, những ngày nóngnực lại thấy một luồng gió lành lạnh thổi dọc qua sống lưng, anh ở trong đó mấylần đều nghe có tiếng phụ nữ khóc.

MớiVương Uy sợ phát khóc, nhưng ông nội cứ ẵm anh vào rồi khóa chặt cửa bỏ đi,mặc anh ở đấy. Qua mấy lần anh cũng quen dần, chẳng sợ nữa. Một hôm, vào lúc nửa đêm, anh thấy trong căn nhà đó có một phụ nữ mặc đồ đen đi đilại lại, thấy anh nhưng lại làm như không trông thấy.

Vương Uy kể lại chuyện này với ông nội, từ bấy về sau ông nội không đưa Vương Uy vào gian nhà kia nữa.

Từ nhỏ tính tình Vương Uy đã rất liều lĩnh, táo bạo, việc gì cũng dám làm, không biết sợ gì cả. Sau này lớn lên anh cũng quên gần hết nhữngchuyện này, giờ đây lão Tôn nhắc đến, đầu anh nóng bừng lên, sực nhớ lại tất cả. Càng nhớ lại những ngày trong gian nhà kia, anh càng thấy lưngđẫm mồ hôi lạnh, cảm thấy nơi đó đúng là một căn nhà ma.

Lão Tôn đằng hắng mấy tiếng, rồi nói:

- Tôi đây lăn lộn trong giang hồ đã mấy chục năm, com mắt nhìn ngườicũng không tệ, bằng không hôm đó xả một loạt súng quét sạch là xong, cần gì hao tâm tổn trí mời cho được mấy vị vào đội thám hiểm?

Vương Uy hết hồn hỏi:

- Bác đã nhận ra đôi mắt âm dương của tôi từ lâu rồi à?

Lão Tôn cười:

- Tôi thấy chiêu Đoạn Môn chỉ của nhà họ Vương Quan Đông, lại nhìnánh mắt anh nửa sáng nửa mờ, trông xa tưởng là mờ đục nhưng nhìn kỹ lạinhư dòng suối trong veo, chẳng phải mắt âm dương trong truyền thuyết thì là gì?

Vương Uy sờ lên mắt mình, dường như cặp mắt anh không khác gì mắtngười bình thường cả, lẽ nào nó thật sự có thể nhìn thấu âm dương, thấyđược những gì người khác không thể thấy như lão Tôn nói sao?

Lão Tôn nói:

- Trong thiên hạ có nhiều cổ thuật, nhưng chỉ có đôi mắt âm dương này là ly kỳ cổ quái nhất. Mẩu xương hồi xưa để anh luyện một mắt nhắm mộtmắt mở lúc ngủ được mài từ xương ngón chân con tê tê nghìn tuổi đấy. Con tê tê quanh năm khoét núi, ngón chân ám địa khí nghìn năm, có thể làmcho đục biến thành trong, xuyên thấu âm dương. Tôi đây cũng chỉ nghe sưphụ nói mới hiểu được đôi chút về những cổ thuật truyền kỳ đó thôi.

Vương Uy nói:

- Hai con mắt thấp thoáng ẩn hiện trong bóng tối kia, mọi người đều trông thấy cả chứ?

Lão Tôn lắc đầu:

- Tôi chỉ có thể căn cứ vào bí thuật tầm long để phán đoán vị trí của Bối long âm khư thôi, chứ không nhìn xuyên thấu âm dương được.

Thấy những người khác trong đội thám hiểm đã vượt mình khá xa, họhướng về phía Bối long âm khư trong bóng tối nhưng dường như chẳng hềphát hiện thấy gì khác lạ, Vương Uy không khỏi giật thót trước khả năngkỳ lạ của mình. Lão Tôn nói:

- Bây giờ chỉ mình anh có thể thấy Bối long âm khư thôi, còn chúngtôi đều mù cả, phải đi theo anh, chúng tôi mới ra khỏi tuyệt địa nàyđược.

Vương Uy nhìn lão Tôn, thấy lão già này có vẻ rất nghiêm túc, các thớ thịt trên khuôn mặt đều căng ra tưởng như có thể đứt tung bất cứ lúcnào, lòng chợt dấy lên một cảm giác khó tả.

Hai người ngậm lấy quai xách của cây đèn bão, thoăn thoắt leo lên trụ đá, dần bắt kịp những người trong đội thám hiểm. Phía trước có mấyngười leo tương đối nhanh, cách họ một khoảng khá xa, chỉ trông thấy mấy ánh đèn vàng vọt lay lắt trong bóng tối.

Vương Uy vẫn nhìn chằm chằm vào hai con mắt xanh lét kia, anh leo lên leo xuống, bất kể leo thế nào cũng không sao phân biệt nổi đôi mắt kialà thật hay là giả, có lẽ kỳ thực nó chỉ là ảo giác.

Những trụ đá này to không bút nào tả xiết, Vương Uy leo trên đó giống như leo trên tường, một bức tường mà anh không biết dài bao nhiêu. Anhleo hồi lâu, chỉ trông thấy những ánh đèn leo lét, không thấy lão tôn và Dương Hoài Ngọc đâu cả, mọi người đều chìm vào bóng tối, mà đôi mắtvĩnh viễn không phân biệt nổi là thật hay ảo kia vẫn náu mình trong bóng tối nơi xa.

Tại lối vào lòng máng, các trụ đá chỉ cách nhau chừng vài ba tấc,nhưng trụ đá càng lớn, khoảng cách này càng rộng ra, rộng đến nỗi khiếnngười ta kinh ngạc. Trước khi leo lên, mọi người trong đội thám hiểmkhông đoán được điều này, bây giờ muốn tập trung lại thì đã muộn.

Trong bóng tối dày đặc, người nọ với người kia, người đi trước và đisau đều cách xa nhau, trụ đá không biết còn dài đến đâu, mà sức ngườithì có hạn, một khi đuối sức rơi xuống chắc chắn sẽ thịt nát xương tan.

Vương Uy liên tiếp nghe thấy tiếng kêu thảm thiết, mấy ngọn đèn phíatrước anh đều đã tắt ngấm, phía sau còn mấy ánh đèn leo lét đang chậmchạp di chuyển. Vương Uy cảm thấy phía trước rất có thể là đường cùng,đỉnh núi tuyết và hang sâu cách nhau đâu phải chỉ mấy nghìn mét, nếu như trụ đá xuyên suốt ngọn núi thì gốc của trụ đá sẽ nằm trên đỉnh núituyết, vậy chẳng nhẽ họ phải leo từ nơi sâu mấy nghìn mét trong lòng đất lên đến tận đỉnh tuyết cao mấy nghìn mét ư?

Vương Uy càng nghĩ càng thấy việc phát hiện ra lòng máng trên nóchang của mình thực là ngu xuẩn. Lẽ ra khi thấy trụ đá không bình thường, anh nên tụt xuống, theo đường cũ đi ra, biết đâu còn lối thoát.

Leo lên đến đây tay chân anh đã mềm nhũn cả, thậm chí anh không biếtmình đã leo lên được bao xa, cứ thế này tin rằng chỉ một lúc nữa anh sẽphải buông tay, rơi từ trên trụ đá cao xuống chết tan xác.

Vương Uy vừa leo vừa nghĩ ngợi lung tung, ngậm ngùi cho cuộc đời lắmtrắc trở, sinh không gặp thời, đi lính đánh trận hơn chục năm trời, lạitừ tiểu đoàn trưởng tụt xuống đại đội trưởng đại đội cảnh vệ. Quân độitừ miền Xuyên Trung tháo chạy đến biên giới phía Tây đất Tạng, cướpgiật, thổ phỉ gì cũng làm rồi, vậy mà hôm nay chỉ còn lại ba người: anhvà Ngọng, Ngoẹo. Cũng không biết hai người kia thế nào rồi, hình như lúc trước cả hai đi sau cùng, mấy ngọn đèn bên dưới có khả năng là bọn họ,cũng có thể đèn của họ đã tắt từ lâu rồi.

Bấy giờ, không biết ai leo tới trước mặt, Vương Uy thấy một luồngsáng nhạt nhòa đang từ từ tiến về phía này, áng chừng đã leo đến mép trụ đá.

Tim Vương Uy chợt đập thình thịch, lẽ nào có người định băng quakhoảng cách giữa hai trụ đá để sang bên này? Đã leo tới độ cao này,khoảng cách giữa hai trụ đá ít ra cũng phải mấy chục mét, người kia cóđiên không?

Vương Uy vội gắng sức leo nhanh hơn, bởi vì về sau này anh đã quansát kỹ từng người trong đội thám hiểm, phát hiện ai nấy đều có bản lĩnhđáng nể, hoặc là cao nhân trong dân gian, hoặc là cướp biển, tất cả đềulà hạng người thâm tàng bất lộ.

Nhất định đám phỉ tặc này sẽ không làm chuyện ngu ngốc như vậy, nếucó ai trong đội ngu ngốc thì cũng chỉ là hai người lính mà anh đem theo, một Ngoẹo, một nữa là Ngọng mà thôi. Hai người này trung thành có thừamà khôn ngoan lại thiếu, hễ hăng lên thì kể cả tê giác cũng dám chơi,không phải cả hai bị dồn vào thế bí nên tính làm chuyện ngu xuẩn là băng qua khoảng cách mấy chục mét sang đây chứ?

(责任编辑:Nhận Định Bóng Đá)

    相关内容
    精彩推荐
    热门点击
    友情链接